Câu hỏi 200: Phí bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt được xác định như thế nào?
Trả lời:
– Phí bảo hiểm được tính theo tỷ lệ phí và số tiền bảo hiểm. Tỷ lệ phí quy định riêng cho từng loại rủi ro. Trong thực tế việc tính phí bảo hiểm được chuẩn hoá theo quy trình sau:
1 – Xác định tỷ lệ phí cơ bản: Tỷ lệ này quy định trong biểu phí cho từng loại đối tượng bảo hiểm theo ngành nghề kinh doanh. Riêng biểu phí bảo hiểm cửa hàng và kho tàng, tỷ lệ phí cơ bản được xác định bằng cách chọn tỷ lệ phí thích hợp từ bảng phân loại hàng hoá theo kho căn cứ vào bao bì và đóng gói, sau đó điều chỉnh theo hệ số của chiều cao và diện tích xếp hàng.
Đối với các công trình kiến trúc, tỷ lệ phí trong bảng là tỷ lệ phí tương ứng với công trình loại N. Nếu công trình được đánh giá là loại D hoặc L thì phải điều chỉnh để chọn được tỷ lệ phí cơ bản thích hợp.
2 – Điều chỉnh tỷ lệ phí cơ bản theo những yếu tố làm tăng, giảm phí.
+ Điều chỉnh theo những yếu tố làm tăng mức độ rủi ro.
· Công trình có thiết bị phụ trợ có thể làm tăng thêm khả năng xảy ra tổn thất.
· Công trình có các điều kiện không thuận lợi đối với rủi ro được bảo hiểm như có các nguồn cháy không được tách biệt hoàn toàn, có không khí bị đốt nóng bởi dầu hay khí đốt ở nơi làm việc, có lò sưởi ấm bằng tia hồng ngoại hoặc dầu, thiếu các thiết bị chữa cháy thích hợp, thiếu các biển báo phòng cháy chữa cháy, có dây chuyền sản xuất tự động nhưng không được trang bị các thiết bị báo cháy đúng tiêu chuẩn,…
· Công trình có trung tâm máy tính nhưng không được ngăn cách bằng tường chống cháy, không có hệ thống phòng cháy chữa cháy riêng biệt và phù hợp; có khả năng xảy ra rủi ro phá hoại, cố tình gây cháy,…
+ Điều chỉnh theo những yếu tố làm giảm mức độ rủi ro.
Những yếu tố này là cơ sở để giảm tỷ lệ phí cơ bản. Tuy nhiên người bảo hiểm khống chế tỷ lệ giảm tối đa không quá 45%. Những yếu tố làm giảm mức độ rủi ro bao gồm:
· Các thiết bị phòng cháy, báo cháy như: có hệ thống báo cháy tự động nối với phòng thường trực, nối thẳng tới trạm cứu hoả công cộng, có bộ phận báo cháy thuộc hệ thống chữa cháy tự động được lắp đặt cố định, có đội cứu hoả có trách nhiệm,… .Trong các yếu tố trên chỉ được chọn yếu tố nào có mức giảm cao nhất, mặc dù người được bảo hiểm có đầy đủ các phương tiện nói trên;
· Các thiết bị và phương tiện chữa cháy như: có hệ thống thủ công hoặc tự động phun nước, dập cháy bằng CO 2, chữa cháy bằng bột, bột khô, dập tắt tia lửa điện, quạt thông khói và hơi nóng, gần đội cứu hoả công cộng và xe cứu hoả có thể đến sau 10 phút, ô tô chữa cháy dễ tiếp cận để chữa cháy,… .Trong các yếu tố kể trên, nếu người được bảo hiểm có nhiều yếu tố để giảm phí thì mức giảm cao nhất được giữ nguyên, các mức giảm khác chỉ tính 50%. Đối với các hệ thống chữa cháy, chỉ coi là đủ điều kiện giảm phí khi được cơ quan chức năng kiểm tra và công nhận.
+ Điều chỉnh theo mức miễn thường. Mức miễn thường tối thiểu là 0,2% số tiền bảo hiểm nhưng không dưới 100 USD/mỗi vụ tổn thất và tối đa không quá 2000 USD/mỗi vụ tổn thất. Đây là mức miễn thường không được giảm phí. Nếu người được bảo hiểm lựa chọn mức miễn thường cao hơn thì sẽ được giảm phí theo các tỷ lệ giảm mà người bảo hiểm qui định trong bảng “Tỷ lệ giảm phí tương ứng với số tiền bảo hiểm và mức miễn thường tự chọn”.
+ Điều chỉnh theo tỷ lệ tổn thất trong quá khứ.
Nếu trong những năm gần nhất, tỷ lệ tổn thất của người được bảo hiểm nhỏ thì tỷ lệ phí cơ bản được điều chỉnh giảm và ngược lại.
Điều đặc biệt lưu ý là việc điều chỉnh tỷ lệ phí cơ bản nhất thiết phải lần l ượt theo thứ tự các yếu tố tăng, giảm ở trên. Không được tính gộp các yếu tố tăng giảm phí, sau đó điều chỉnh tỷ lệ phí cơ bản theo mức tăng giảm gộp đó. Sau khi xem xét, điều chỉnh theo những yếu tố ảnh hưởng, tỷ lệ phí bảo hiểm rủi ro cơ bản sẽ được ấn định. Kết hợp với yêu cầu bảo hiểm đối với các rủi ro phụ, các điều khoản bảo hiểm bổ sung, thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, mức phí bảo hiểm của từng hợp đồng sẽ được xác định cụ thể.
Comments are closed.