Bảo hiểm thất nghiệp là một công cụ kích cầu rất hiệu quả mà lẽ ra nó nên được sử dụng ngay, khi Việt Nam phải đối mặt với năm 2009 đầy khó khăn.
Từ ngày 1.1.2009 luật Bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực nhưng do quy định phải ít nhất 12 tháng sau khi đóng phí bảo hiểm, người lao động mới được xét chi trả bảo hiểm nên sớm nhất là đầu năm 2010, mới có người được nhận tiền bảo hiểm thất nghiệp.
Độ trễ một năm như vậy là điều rất đáng tiếc, vì đây là một công cụ kích cầu rất hiệu quả mà lẽ ra nó nên được sử dụng ngay, khi Việt Nam phải đối mặt với năm 2009 đầy khó khăn.
Đối với các nước phát triển, hệ thống bảo hiểm thất nghiệp được coi là một công cụ hấp thụ sốc tự động cho nền kinh tế. Nghĩa là khi kinh tế phát triển mạnh và tỷ lệ thất nghiệp giảm, dòng tiền chảy vào quỹ cao hơn dòng tiền chi trả ra, cho nên sẽ làm giảm bớt tổng cầu.
Ngược lại khi kinh tế suy thoái, người thất nghiệp được nhận tiền từ quỹ vừa giảm bớt khó khăn cho họ, vừa ngăn không để tổng cầu giảm quá nhanh.
Điểm đặc biệt của cơ chế này so với các gói kích thích tài chính là nó đã được luật hoá và vận hành không cần cơ quan lập pháp cho phép nữa, do vậy nó có tính tự động và rất kịp thời. Để tăng cường hiệu lực của cơ chế hấp thụ sốc tự động này, đã có đề xuất thay đổi mức đóng góp vào quỹ và mức chi trả từ quỹ tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế.
Ví dụ khi kinh tế tăng trưởng nóng, phí bảo hiểm tự động được nâng lên, vừa giúp số tiền trong quỹ tăng lên nhanh hơn, vừa giảm bớt nhu cầu thuê nhân công của các doanh nghiệp và hạ nhiệt nền kinh tế.
Khi kinh tế suy thoái, số tiền chi trả từ quỹ cho người thất nghiệp được tăng lên, kích thích tổng cầu mạnh hơn. Thêm vào đó, thời gian được hưởng bảo hiểm thất nghiệp có thể được kéo dài ra trong giai đoạn suy thoái, vì lúc này khả năng tìm việc mới sẽ khó hơn bình thường.
Ở các nước phát triển, bên cạnh hệ thống bảo hiểm thất nghiệp của nhà nước, khu vực tư nhân cũng cung cấp nhiều hình thức bảo hiểm thất nghiệp khác.
Có điều những loại hình bảo hiểm tư nhân này, chủ yếu nhắm vào các đối tượng có thu nhập cao, vì giới lao động nghèo lương thấp rất ít quan tâm đến bảo hiểm và rủi ro bị thất nghiệp của họ rất cao.
Do đó dù mang tên là bảo hiểm thất nghiệp (unemployment insurance), về bản chất, đây là một dạng an sinh xã hội (social safety net) cho người nghèo và một số nước gộp chung quỹ bảo hiểm xã hội vào quỹ an sinh xã hội.
Ngay như ở Việt Nam, bảo hiểm thất nghiệp cũng do quỹ bảo hiểm xã hội quản lý.
Tuy nhiên cũng giống như các hình thức bảo hiểm xã hội khác (hưu trí, y tế), thế giới đang có trào lưu chuyển dần từ thể thức quy định lợi tức (defined benefits) sang quy định mức đóng góp (defined contributions).
Thể thức đầu quy định mức đóng và bảo đảm mức chi trả xác định khi người lao động về hưu. Thể thức sau quy định số tiền hàng tháng đóng vào. Số tiền này được dùng để đầu tư. Số tiền người về hưu được lĩnh phụ thuộc vào số tiền còn lại trong quỹ lúc đó, lợi nhuận của quỹ.
Trào lưu nói trên là điều không thể tránh khỏi khi cơ cấu dân số già dần ở nhiều nước làm cho hệ thống trả – theo – mức – đóng (PAYG) có nguy cơ bị phá sản. Một số nhà kinh tế cho rằng, cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại ở Mỹ sẽ không là gì, nếu so với cuộc khủng hoảng hệ thống an sinh xã hội trong tương lai khi cơ chế PAYG không thể cáng đáng được số lương hưu phải chi trả. Khoảng 20 – 30 năm nữa, Mỹ sẽ phải chuyển sang chương trình quy định mức đóng góp.
World Bank đã từng có một nghiên cứu rất lớn về vấn đề chuyển đổi này. Kết luận là một mô hình hỗn hợp như của Úc, kết hợp thể thức quy định lợi tức từ một quỹ bảo hiểm xã hội của Nhà nước, với quy định mức đóng góp dựa vào khu vực tư nhân, sẽ là tối ưu và dễ chuyển đổi.
Người viết cho rằng, Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội rất lớn khi bắt đầu xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội cách đây vài năm, khi không đi theo mô hình quy định mức đóng góp hoàn toàn của Singapore và Malaysia.
Ở hai quốc gia nói trên, toàn bộ hệ thống social safety net được đưa vào một quỹ tiết kiệm trung ương (central provident fund).
Không chỉ tiền hưu, tiền khám chữa bệnh, tiền thất nghiệp được chi trả từ đây, mà cả tiền đào tạo, tiền mua nhà, và ở một mức độ nhất định cả tiền đầu tư vào các tài sản tài chính, cũng được điều phối thông qua quỹ tiết kiệm này. Vì mức đóng góp cũng như giới hạn rút tiền ra từ quỹ có thể thay đổi được, đây là một dạng cân bằng tài chính tự động (automatic fiscal stabilizer) của chính phủ.
Về bản chất các quỹ này, là hình thức tiết kiệm bắt buộc, nên nó còn là công cụ để chính phủ định hướng tỷ lệ tiết kiệm trong dài hạn nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Rất nhiều người, nhất là các tín đồ của đồng thuận Washington, không ủng hộ hình thức quỹ tiết kiệm như của Singapore và Malaysia, vì nó áp đặt tỷ lệ tiết kiệm cho tất cả mọi người. Việt Nam khi bắt đầu xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đã bắt chước hệ thống an sinh xã hội của Mỹ, kể cả bảo hiểm thất nghiệp vừa đi vào hiện thực.
Có thể Việt Nam đã được “tư vấn” từ WB/IMF và những nhà kinh tế tự do của phương Tây nên đã bỏ qua kinh nghiệm của hai người hàng xóm rất thành công.
Theo TS Lê Hồng Giang
Theo Báo Sài Gòn Tiếp Thị
Comments are closed.