Biến đổi khí hậu và ngành bảo hiểm – Từ bị động tới chủ động thích ứng(Phần 2)

alt

III. Một số rào cản với các DNBH Việt Nam trong chiến lược thích ứng với BĐKH

Thiết kế sản phẩm: 

Thứ nhất, để rủi ro có thể bảo hiểm được thì tần suất xảy ra rủi ro và mức độ tổn thất mà DNBH phải chi trả ứng với các mức quyền lợi bảo hiểm phải tính toán được.

Sẽ rất khó khăn để hiện thực hóa hai điều kiện này cho các đơn bảo hiểm rủi ro BĐKH vì các rủi ro như lũ lụt, hạn hán…hệ quả của BĐKH thường xảy ra với tần suất thấp và mức độ thiệt hại quy mô lớn. Việc tính toán thiệt hại sẽ rất khó khăn nếu không có các hệ thống dữ liệu  về tổn thất trên quy mô lớn, được tập hợp trong một thời gian dài. Sự không chắc chắn liên quan tới các kịch bản BĐKH là đáng kể; Tác động của BĐKH lên tần suất xảy ra rủi ro được bảo hiểm (như hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh…) cũng là yếu tố không chắc chắn. Do đó, phương án giải quyết vấn đề này là sự chia sẻ rủi ro giữa DNBH với chính phủ. Tuy nhiên, để thị trường bảo hiểm thế giới phát triển và trở thành một công cụ kinh tế môi trường, công cụ tài chính hữu hiệu, cần tìm ra hướng giải quyết mới cho vấn đề này. 

Thứ hai, các công ty bảo hiểm phải xác định được mức phí ứng với các đối tượng khách hàng khác nhau. Đây có thể là một thách thức lớn do rủi ro không chắc chắn, lựa chọn bất lợi, nguy cơ tinh thần, rủi ro hệ thống. 

Sự không chắc chắn của rủi ro và tổn thất

Khó khăn trong việc đánh giá khả năng xảy ra các rủi ro và ước lượng thiệt hại tạo trở ngại cho việc xây dựng biểu phí phù hợp và quản lý rủi ro của các công ty bảo hiểm. Kinh nghiệm thực tế cho thấy tần suất rủi ro và mức độ tổn thất càng không chắc chắn thì mức phí bảo hiểm đề xuất càng cao.  Mức phí cao nhằm giảm thiểu những rủi ro mà công ty bảo hiểm phải gánh chịu do những yếu tố không chắc chắn trong tần suất và phạm vi chi trả cho các yêu cầu bồi thường tương lai. Tức là phí bảo hiểm cho các rủi ro liên quan tới BĐKH sẽ cao hơn các rủi ro khác, chẳng hạn như cháy nổ, đổ vỡ máy móc…mặc dù tổn thất dự kiến có thể như nhau. Yếu tố không chắc chắn gắn liền với các rủi ro BĐKH là rất đáng kể vì hiện thời có rất ít thông tin khoa học và dữ liệu được thu thập trong một thời gian đủ dài để có thể xác định các đặc tính của rủi ro (như tần suất, mức độ, khu vực rủi ro..) khi so sánh với các rủi ro thông thường khác vì các rủi ro BĐKH xảy ra với tần suất thấp. Các công ty bảo hiểm có thể sử dụng các mô hình thảm họa để nghiên cứu về các tổn thất do các thảm họa này gây ra, tuy nhiên, cách thức này vẫn chưa thể giải quyết hoàn toàn các vấn đề liên quan tới yếu tố không chắc chắn.

Thông tin không cân xứng: Lựa chọn bất lợi và nguy cơ tinh thần

Lo ngại về những vấn đề do lựa chọn ngược gây ra sẽ ảnh hưởng tới việc mở rộng các loại hình bảo hiểm rủi ro BĐKH. Lựa chọn bất lợi là hiện tượng người tham gia bảo hiểm tập trung lựa chọn vào các đối tượng có nguy cơ rủi ro cao hơn để mua bảo hiểm. Do đó, công ty bảo hiểm sẽ phải gánh chịu tổn thất khi mức phí được tính căn cứ theo khả năng trung bình xảy ra tổn thất. Nguyên nhân dẫn đến lựa chọn bất lợi là thông tin không cân xứng giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Vấn đề này càng nghiêm trọng hơn khi người mua bảo hiểm có thể xác định được các mức độ, đặc trưng rủi ro của mình trong khi các công ty bảo hiểm gặp khó khăn để phân biệt người rủi ro tốt và người rủi ro xấu. Nếu loại trừ thông tin không đối xứng này, công ty bảo hiểm chỉ cần áp mức phí cao lên những người có rủi ro cao. Lựa chọn bất lợi dẫn dến mức phí bảo hiểm cao do các DNBH tự bảo vệ mình trước nguy cơ rủi ro.

Thông tin không cân xứng giữa công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm còn dẫn đến nguy cơ tinh thần. Người đã tham gia bảo hiểm thường ít cẩn thận, đề phòng trước rủi ro hơn và công ty bảo hiểm không thể kiểm soát được điều này, do đó, khả năng xảy ra tổn thất sẽ cao hơn. Nguy cơ tinh thần có thể gia tăng khi các cá nhân đã tham gia bảo hiểm rủi ro BĐKH. Tuy nhiên, nguy cơ tinh thần của người tham gia bảo hiểm là một vấn đề thứ yếu trong bảo hiểm rủi ro BĐKH vì họ không thể kiểm soát được khi nào sự kiện bảo hiểm xảy ra (tức là khả năng xảy ra thiệt hại) mặc dù họ có thể kiểm soát được mức độ thiệt hại trong và sau rủi ro lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh..

Rủi ro có hệ thống

Các nhà bảo hiểm có khả năng phá sản do phải bồi thường nhiều tổn thất xảy ra cùng lúc do nguyên nhân từ một sự kiện được bảo hiểm. Tình huống này nảy sinh khi các rủi ro có tính hệ thống. Hơn nữa, các thảm họa tự nhiên như lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh… thường gây thiệt hại lớn. Do đó, khi các rủi ro không được phân loại về mặt địa lý, công ty bảo hiểm bất ngờ phải đối mặt với những tổn thất đáng kể không thể bù đắp bằng doanh thu phí bảo hiểm. VD: Các công ty bảo hiểm ở khu vực lưu vực sông, duyên hải, khu đất lấn biển cần nắm được mối liên hệ tương quan giữa các trận lũ lụt. Các công ty bảo hiểm sẽ áp mức phí bảo hiểm cao hơn cho những khu vực có rủi ro hệ thống cao hơn để bù đắp cho khả năng phá sản, đảm bảo khả năng chi trả. Một đặc điểm của rủi ro BĐKH là khả năng xảy ra thấp/tác động lớn của các sự kiện bảo hiểm. Điều này gây khó khăn cho việc chi trả tổn thất và dự phòng đủ vốn cho các tổn thất tiếp theo.

Tuy nhiên, những vấn đề này có thể từng bước được giải quyết và giảm dần ảnh hưởng do đặc tính linh hoạt của ngành bảo hiểm: Mức phí và đơn bảo hiểm có thể điều chỉnh hàng năm, do đó, góp phần hạn chế rủi ro cho các công ty bảo hiểm.

Nhận thức của cộng đồng: Vấn đề muôn thưở

 Do các điều khoản bổ sung liên quan tới rủi ro BĐKH hoặc bảo hiểm “xanh” là lựa chọn tự nguyện của khách hàng, vì vậy, nếu khách hàng chưa nhận thức được vai trò, tầm quan trọng trong hành vi tiêu dùng của mình, các DNBH sẽ đối mặt với khó khăn trong việc phát triển thị trường. Ngoài ra, có thể xuất hiện hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các DNBH. Cùng một đơn bảo hiểm, nhưng nhà bảo hiểm chỉ cần bỏ đi điều khoản bảo hiểm xanh là đã có thể giảm phí, thu hút khách hàng. Do đó, tư duy doanh nghiệp và nhận thức khách hàng là hai yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới sự tồn tại và phát triển của các sản phẩm bảo hiểm xanh.

IV. Những đề xuất và giải pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia của ngành bảo hiểm 

Về phía Nhà nước: 

Trong ngắn hạn, Nhà nước cần đưa ra các biện pháp về mặt pháp lý, bao gồm: quy định khung pháp lý với các hoạt động kinh doanh, các biện pháp hành chính như quy định danh mục đầu tư, cấp phép thành lập…, các biện pháp tài chính như thuế, phí, trợ cấp, trợ giá để huy động được sự tham gia đông đảo của người dân và các DNBH tham gia triển khai bảo hiểm thích ứng với BĐKH. Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý thuận lợi , ban hành các chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp triển khai loại hình bảo hiểm thích ứng với BĐKH, các văn bản hướng dẫn , các quy định liên quan đồng bộ trong các ngành Thuế, tài chính…như:

Miễn, giảm thuế và các khoản phải nộp vào ngân sách, đặc biệt quan tâm tới thuế thu nhập doanh nghiệp khi các DNBH tham gia cung cấp loại hình bảo hiểm thích ứng với BĐKH;

Lồng ghép quy định bắt buộc mua bảo hiểm thích ứng với BĐKH trong một số trường hợp như: vay vốn ngân hàng, mua nhà. Có thể nâng lên thành một quy định chung mang tính cưỡng chế, đặc biệt ở các khu vực rủi ro cao như: khu ven biển, duyên hải miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long… 

Ban hành các quy định, khung nghị định, văn bản hướng dẫn triển khai các loại hình bảo hiểm thích ứng với BĐKH, chỉ rõ vai trò, trách nhiệm và cơ chế phối hợp thực hiện giữa các bên liên quan.

Ngoài ra, Nhà nước cũng cần tạo hành lang pháp lý để các nhà bảo hiểm phối hợp với các nhà khoa học xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thu thập thông tin tổn thất trên quy mô toàn quốc và liên tục trong thời gian dài đồng thời cũng quy định về cơ chế chia sẻ thông tin giữa các bên liên quan. Để xây dựng được bộ dữ liệu có tính khoa học và tin cậy đòi hỏi có sự phối hợp tham gia của nhiều bên liên quan, từ Nhà nước, doanh nghiệp, người dân tới các nhà khoa học trên mọi lĩnh vực kinh tế, y học, nông lâm ngư nghiệp, thổ nhưỡng, sinh học…để tập hợp thông tin, hoàn thiện dữ liệu theo dõi, đánh giá, phục vụ công tác giám định bồi thường và phải tiến hành càng sớm càng tốt. Để làm được điều này, Nhà nước cần đóng vai trò là người hỗ trợ đắc lực thông qua việc xây dựng cơ sở pháp lỹ hỗ trợ cho cơ chế phối hợp, điều chuyển cán bộ liên quan ở các lĩnh vực trong công tác tiền triển khai (nghiên cứu về các rủi ro, xây dựng quy tắc điều khoản, phân chia vùng rủi ro) tới giám định, bồi thường tổn thất (giá trị kinh tế của tổn thất, nguyên nhân tổn thất). 

Trong dài hạn, khi một số sản phẩm thích ứng BĐKH mới đã được triển khai trên quy mô rộng, Nhà nước cần hỗ trợ DNBH vượt qua những khó khăn trong việc bồi thường khi rủi ro BĐKH gây ra tổn thất lớn, đặc biệt trong trường hợp các rủi ro có liên quan tới nhau và xảy ra cùng lúc. Ngoài việc tạo điều kiện cho các sản phẩm bảo hiểm tư nhân phát triển, chính phủ cũng có thể xây dựng một dạng bảo hiểm công để bảo lãnh cho các hộ gia đình trong trường hợp tổn thất quy mô lớn và đồng loạt xảy ra. Thay vì cung cấp phạm vi bảo vệ toàn diện, chính phủ có thể kết hợp với hoạt động tái bảo hiểm ra thị trường tái quốc tế hay nhận tái bảo hiểm từ các DNBH để vượt qua các khó khăn do mối liên hệ tương quan giữa các rủi ro gây ra. Các DNBH có thể chi trả tới một giới hạn xác định và phần còn lại do Chính phủ chi trả trong trường hợp rủi ro tương quan là một biện pháp có khả năng hiện thực cao nhất do Chính phủ có thể dễ dàng tiếp cận với những khoản vay lãi suất thấp một cách nhanh chóng. Điểm mạnh trong việc chính phủ đóng vai trò nhà tái bảo hiểm là họ có thể phân tán rủi ro cho toàn bộ dân cư cũng như các thế hệ tương lai. Sự hợp tác giữa Chính phủ và DNBH trong giai đoạn đầu là điều hoàn toàn cần thiết, góp phần củng cố năng lực tài chính giúp doanh nghiệp đối phó với những rủi ro tương quan hay rủi ro gây thiệt hại trên quy mô lớn, từ đó xây dựng niềm tin ở người tham gia bảo hiểm.

Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, Nhà nước cần nâng cao nhận thức của người dân đối với các sản phẩm bảo hiểm thích ứng với BĐKH, giúp họ hiểu rõ được vai trò của loại hình bảo hiểm này trong điều kiện hiện nay cũng như quyền lợi của mình khi tham gia bảo hiểm. Bên cạnh đó, việc khuyến khích, tuyên truyền, cổ động cho xu hướng tiêu dùng xanh, từ đó, từng bước nâng cao ý thức, hướng tới xây dựng lối sống xanh trong cộng đồng dân cư cũng cần được đầu tư quan tâm.

Về phía các doanh nghiệp bảo hiểm

Trong ngắn hạn, ngành bảo hiểm có thể tổ chức các hội thảo chuyên ngành, thành lập các tổ nghiên cứu, huy động bài viết hoặc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu trên các tạp chí chuyên ngành để từng bước phổ biến kiến thức về loại hình bảo hiểm này trên phạm vi quốc gia. Việc trao đổi, hợp tác nghiên cứu khoa học đào tạo, tham gia các khóa đào tạo, nâng cao nghiệp vụ trong lĩnh vực chuyên ngành liên quan cũng góp phần nâng cao nhận thức của doanh nghiệp.

Ngành bảo hiểm cũng cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống thông tin để đảm bảo tăng năng suất lao động và xây dựng biểu phí phù hợp. Dựa vào cơ chế và hành lang pháp lý do Nhà nước ban hành, ngành bảo hiểm cần chủ động xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về rủi ro BĐKH cũng như xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu khách hàng để quản lý tập trung và làm cơ sở tính phí, kiểm soát rủi ro. Hệ thống dữ liệu này cần được thu thập trong thời gian dài do các rủi ro BĐKH là một quá trình tích lũy lâu dài làm cơ sở để các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực bảo hiểm xác định được tần suất và mức độ tác động của các rủi ro, khắc phục hạn chế của yếu tố không chắc chắn trong bảo hiểm rủi ro BĐKH đồng thời có thể sử dụng làm cơ sở tính phí, kiểm soát rủi ro.

Để kiểm soát các rủi ro đạo đức, các DNBH có thể áp dụng mức miễn thường hoặc đồng bảo hiểm. Mức miễn thường phù hợp sẽ là động lực cho các cá nhân áp dụng các biện pháp hạn chế tổn thất vì người tham gia bảo hiểm phải thanh toán cho một phần thiệt hại. Một thuận lợi của việc áp dung mức miễn thường đó là giảm các chi phí giao dịch vì chỉ những đối tượng được bảo hiểm có thiệt hại trên mức khấu trừ mới được bồi thường. Điều khoản này đặc biệt hữu hiệu cho đơn bảo hiểm rủi ro BĐKH, ví dụ rủi ro lũ lụt có thể dẫn đến rất nhiều yêu cầu bồi thường trong cùng một thời gian. Với hình thức đồng bảo hiểm, một phần tỷ lệ tổn thất sẽ được các nhà bảo hiểm thanh toán và một phần sẽ do cá nhân tham gia bảo hiểm tự gánh chịu. Vì vậy, khách hàng sẽ có động lực để hạn chế tổn thất và tiến hành các biện pháp đề phòng do rủi ro được chia sẻ. 

Trong dài hạn, sau khi hệ thống dữ liệu được xây dựng hoàn chỉnh, các DNBH cũng cần liên tục cập nhật thông tin để đảm bảo độ tin cậy và chính xác của hệ thống dữ liệu. Một hoạt động không thể thiếu trong dài hạn đó là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thông qua các khóa đào tạo trong và ngoài nước cũng như sự phối hợp chuyển giao kĩ thuật giữa ngành bảo hiểm và nhiều ngành khác, trong đó có kinh tế môi trường, các DNBH cần xây dựng và phát triển một đội ngũ cán bộ nghiệp vụ nắm vững kiến thức về rủi ro môi trường, lượng hóa thiệt hại kinh tế của các rủi ro môi trường cũng như đánh giá tác động môi trường để làm cơ sở cung cấp các dịch vụ tư vấn, quản trị rủi ro và phát triển sản phẩm.

Các nhà khoa học và cộng đồng

Trong ngắn hạn, khi Nhà nước có cơ chế chính sách và DNBH đầu tư nghiên cứu xây dựng hệ thống dữ liệu về rủi ro môi trường, các nhà khoa học và các nhà kinh tế môi trường cần có sự phối hợp hiệu quả để xây dựng bộ dữ liệu này. Các nhà khoa học trong các lĩnh vực: địa lý, thổ nhưỡng, hải dương học, khoa học tự nhiên…theo dõi, nghiên cứu, xác định nguyên nhân, đánh giá xu thế, tần suất của các rủi ro trong lĩnh vực nghiên cứu của mình và hợp tác với nhau để kết nối các dữ liệu, xây dựng một bộ dữ liệu chung áp dụng cho từng khu vực địa lý.

Trong dài hạn, các nhà khoa học giữ vai trò hỗ trợ cung cấp thông tin, hợp tác với nhà bảo hiểm trong công tác đánh giá rủi ro, giám định tổn thất, đồng thời, hoàn thiện cơ chế chia sẻ thông tin giữa hai lĩnh vực, đảm bảo hiệu quả ứng dụng của công tác nghiên cứu khoa học, đặc biệt trong quản trị rủi ro.

Với vai trò là người tiêu dùng, trong điều kiện được tiếp cận đầy đủ với thông tin về BĐKH, ý thức tự chủ động bảo vệ bản thân và tài sản được nâng cao, xu hướng tiêu dùng xanh được khuyến khích, người dân chính là người đưa ra nhu cầu về sản phẩm bảo hiểm cũng như đòi hỏi sản phẩm phải được thiết kế hợp lý, chất lượng dịch vụ tốt./.

HẾT

Vũ Trung Hiếu

(Bảo Việt)

{flike}

Comments are closed.